Cách phòng bệnh Sốt xuất huyết 12/05/2015
Bệnh sốt xuất huyết là gì?
Sốt xuất
huyết là bệnh truyền nhiễm cấp tính, có thể gây thành dịch do vi rút
dengue gây ra. Bệnh lây lan do muỗi vằn đốt người bệnh nhiễm vi rút sau
đó truyền bệnh cho người lành qua vết đốt. Hai loại muỗi vằn truyền bệnh
có tên khoa học là Aedes aegypti và Aedes albopictus, trong đó chủ yếu
là do Aedes aegypti.
Bệnh xảy ra ở
tất cả các nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới. Ở Việt Nam, bệnh lưu
hành rất phổ biến, ở cả 4 miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên, kể cả ở
thành thị và vùng nông thôn, bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường bùng
phát thành dịch lớn vào mùa mưa, nhất là vào các tháng 7, 8, 9, 10.
Sự nguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết:
- Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh.
- Thường gây
ra dịch lớn với nhiều người mắc cùng lúc làm cho công tác điều trị hết
sức khó khăn, có thể gây tử vong nhất là với trẻ em, gây thiệt hại lớn
về kinh tế, xã hội.
- Bệnh sốt
xuất huyết do vi rút Dengue gây ra với 4 típ gây bệnh được ký hiệu là
D1, D2, D3, D4. Cả 4 típ gây bệnh này đều gặp ở Việt Nam và luân phiên
gây dịch. Do miễn dịch được tạo thành sau khi mắc bệnh chỉ có tính đặc
hiệu đối với từng típ cho nên người ta có thể mắc bệnh sốt xuất huyết
lần thứ 2 hoặc thứ 3 bởi những típ khác nhau.
Đặc điểm của muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết:
- Muỗi có màu đen, thân và chân có những đốm trắng thường được gọi là muỗi vằn.
- Muỗi vằn cái đốt người vào ban ngày, đốt mạnh nhất là vào sáng sớm và chiều tối.
- Muỗi vằn thường trú đậu ở các góc/xó tối trong nhà, trên quần áo, chăn màn, dây phơi và các đồ dùng trong nhà.
- Muỗi vằn đẻ
trứng, sinh sản ở các ao, vũng nước hoặc các dụng cụ chứa nước sạch ở
trong và xung quanh nhà như bể nước, chum, vại, lu, khạp, giếng nước,
hốc cây... các đồ vật hoặc đồ phế thải có chứa nước như lọ hoa, bát nước
kê chạn, lốp xe, vỏ dừa... Muỗi vằn phát triển mạnh vào mùa mưa, khi
nhiệt độ trung bình hàng tháng vượt trên 20º C.
Biểu hiện của bệnh:
Thể bệnh nhẹ:
- Sốt cao đột ngột 39 - 40 độ C, kéo dài 2 - 7 ngày, khó hạ sốt.
- Đau đầu dữ dội ở vùng trán, sau nhãn cầu.
- Có thể có nổi mẩn, phát ban.
Thể bệnh nặng:
Bao gồm các dấu hiệu trên kèm theo một hoặc nhiều dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu
xuất huyết: Chấm xuất huyết ngoài da, chảy máu cam, chảy máu chân răng,
vết bầm tím chỗ tiêm, nôn/ói ra máu, đi cầu phân đen (do bị xuất huyết
nội tạng).
- Đau bụng,
buồn nôn, chân tay lạnh, người vật vã, hốt hoảng (hội chứng choáng do
xuất huyết nội tạng gây mất máu, tụt huyết áp), nếu không được cấp cứu
và điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
Cần làm gì khi nghi ngờ bị sốt xuất huyết:
- Đưa ngay người bệnh đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
Cách phòng bệnh sốt xuất huyết:
Cách phòng bệnh tốt nhất là diệt muỗi, lăng quăng/bọ gậy và phòng chống muỗi đốt.
- Loại bỏ nơi sinh sản của muỗi, diệt lăng quăng/bọ gậy bằng cách:
+ Đậy kín tất cả các dụng cụ chứa nước để muỗi không vào đẻ trứng.
+ Thả cá hoặc mê zô vào các dụng cụ chứa nước lớn (bể, giếng, chum, vại...) để diệt lăng quăng/bọ gậy.
+ Thau rửa các dụng cụ chức nước vừa và nhỏ (lu, khạp…) hàng tuần.
+ Thu
gom, hủy các vật dụng phế thải trong nhà và xung quanh nhà như chai,
lọ, mảnh chai, mảnh lu vỡ, ống bơ, vỏ dừa, lốp/vỏ xe cũ, hốc tre, bẹ
lá..., dọn vệ sinh môi trường, lật úp các dụng cụ chứa nước khi không
dùng đến.
+ Bỏ muối hoặc dầu vào bát nước kê chân chạn/tủ đựng chén bát, thay nước bình hoa/bình bông.
- Phòng chống muỗi đốt:
+ Mặc quần áo dài tay.
+ Ngủ trong màn/mùng kể cả ban ngày.
+ Dùng bình xịt diệt muỗi, hương muỗi, kem xua muỗi, vợt điện diệt muỗi...
+ Dùng rèm che, màn tẩm hóa chất diệt muỗi.
+ Cho người bị sốt xuất huyết nằm trong màn, tránh muỗi đốt để tránh lây lan bệnh cho người khác.
- Tích cực phối hợp với chính quyền và ngành y tế trong các đợt phun hóa chất phòng, chống dịch.
Bệnh tay chân miệng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây
nên, cùng tìm hiểu nguyên nhân và cách phòng chống để hạn chế những biến
chứng nguy hiểm.
Bệnh tay chân miệng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây
nên, bệnh thường gặp ở trẻ em (trên 90%). Bệnh có thể bị rải rác hoặc
bùng phát thành các vụ dịch nhỏ vào mùa hè ở những nơi đông dân cư, điều
kiện vệ sinh kém. Biểu hiện của bệnh là những mụn nước, bọng nước ở
tay, chân và miệng. Rất nhiều bệnh nhân được chẩn đoán nhầm với các bệnh
da khác như chốc, thuỷ đậu, dị ứng,... dẫn đến điều trị sai lầm và làm
bệnh lan tràn.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh do Enterovirus (nhóm virus đường ruột) gây ra, thường gặp nhất
là chủng virus Coxsackie A16. Ngoài ra, một số chủng virus Coxsackie
nhóm A khác (A4-A7, A9, A10) hoặc virus Coxsackie nhóm B (B1-B3, và B5)
cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh. Trong những năm gần đây, ở khu vực
Đông Á và Đông Nam Á xuất hiện những vụ dịch bệnh tay chân miệng do
Enterovirus typ 71 gây nên. Khác với các chủng Coxsackie cổ điển, chủng
Enterovirus typ 71 có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như viêm não,
màng não, viêm cơ tim, viêm phổi và có thể dẫn đến tử vong. Cần lưu ý là
bệnh này không có liên quan gì đến bệnh lở mồm long móng ở gia súc, một
bệnh gây ra bởi Aphthovirus.
Tính chất lây lan của bệnh
Virus có tính chất lây lan rất mạnh. Virus truyền trực tiếp từ người
sang người. Người lành bị nhiễm virus do hít hay nuốt phải các giọt nhỏ
chất tiết đường tiêu hoá, hô hấp được phát tán khi bệnh nhân ho, hắt
hơi. Virus cũng có thể lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với dịch của mụn
nước, bọng nước hoặc tiếp xúc với phân của bệnh nhân. Trong vùng dịch,
có rất nhiều trẻ em bị nhiễm và đào thải virus ra môi trường nhưng không
phải tất cả trẻ đó có biểu hiện bệnh.
Triệu chứng của bệnh
Triệu chứng bắt đầu xuất hiện sau khi nhiễm virus từ 3-6 ngày. Biểu
hiện sớm nhất của bệnh là mệt mỏi, sốt nhẹ (38 - 38,5oC), đau họng, sổ
mũi diễn ra trong vài ngày. Sau đó bệnh sang giai đoạn toàn phát. Đầu
tiên là sự xuất hiện các mụn nước ở niêm mạc miệng, thường là ở mặt
trong má, lợi, mặt bên của lưỡi; các mụn nước có kích thước nhỏ (2-3mm)
nằm trên một nền niêm mạc viêm đỏ. Các mụn nước trong miệng thường dập
vỡ rất nhanh tạo ra các vết trợt loét rất đau rát làm bệnh nhân khó ăn
uống. Tiếp theo, xuất hiện các mụn nước, bọng nước ở bàn chân, bàn tay,
đôi khi gặp cả mụn nước, bọng nước ở mông. Các mụn nước, bọng nước này
thường không gây đau rát; chúng tồn tại trong vòng 7 đến 10 ngày rồi xẹp
xuống và tự mất đi kể cả khi không được điều trị. Bệnh nhân có khả năng
lây bệnh cho người khác qua đường hô hấp trong 1 tuần đầu bị bệnh. Bệnh
nhân còn có khả năng đào thải virus qua phân trong vòng vài tuần sau.
Sau khi khỏi bệnh, cơ thể bệnh nhân có miễn dịch với chủng virus gây
bệnh, nhưng một người có thể bị bệnh tay chân miệng nhiều lần nếu lần
sau bị nhiễm các chủng virus khác với những lần trước. Bệnh thường gặp ở
trẻ dưới 10 tuổi, tuy nhiên người lớn chưa có miễn dịch với bệnh cũng
có thể mắc bệnh.
Biến chứng của bệnh
Bệnh có thể gây biến chứng viêm não, màng não, viêm cơ tim, viêm
phổi. Đây là một biến chứng rất hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm, có thể gây
tử vong, thường do chủng Enterovirus típ 71 gây ra.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng, tiền sử bệnh và
các yếu tố dịch tễ. Các xét nghiệm virus chủ yếu sử dụng nhằm mục đích
nghiên cứu khoa học.
Điều trị
Cần đưa bệnh nhân đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế chuyên khoa
da liễu hoặc truyền nhiễm, không được tự mua thuốc điều trị để tránh
các biến chứng. Hiện không có thuốc đặc hiệu diệt virus gây bệnh tay
chân miệng. Các biện pháp điều trị chủ yếu là chăm sóc bệnh nhân. Cho
bệnh nhân dùng các loại thuốc hạ sốt, giảm đau; bù đủ nước cho bệnh nhân
nếu có sốt cao. Bệnh nhân cần được ăn đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn lỏng,
dễ tiêu; vệ sinh miệng thường xuyên bằng các dung dịch sát khuẩn. Tại
các thương tổn ngoài da, bôi các dung dịch sát khuẩn để tránh bội nhiễm.
Khi có biến chứng viêm não, màng não, viêm cơ tim, viêm phổi phải nhập
viện để có biện pháp điều trị tích cực.
Phòng ngừa
Hiện tại vẫn chưa có vaccin phòng bệnh chân tay miệng. Trong vùng
dịch, biện pháp hữu hiệu nhất để khống chế dịch là phòng lây lan bệnh
sang người lành. Các biện pháp phòng ngừa là:
- Người lành, nhất là trẻ em nên hạn chế tiếp xúc với bệnh nhân nếu không thực sự cần thiết.
- Sau khi chăm sóc bệnh nhân, cần rửa tay kỹ với xà phòng.
- Không được chọc vỡ các mụn nước bọng nước trên da bệnh nhân.
- Giặt các đồ dùng của bệnh nhân và lau phòng ở của bệnh nhân bằng các dung dịch sát khuẩn có chlor.
- Cần theo dõi chặt chẽ những trẻ có biểu hiện sốt trong vùng dịch.
- Cho trẻ nghỉ học cho đến khi khỏi bệnh.